Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Quốc hội khóa I bầu ra. Hàng đầu, ở giữa là Chủ tịch Hồ Chí Minh, bên phải là ông Nguyễn Văn Tố, bên trái là ông Huỳnh Thúc Kháng. (Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia III)
Đặt nền móng cho một hệ thể chế quốc gia mới
Nhìn lại thắng lợi cách đây 80 năm, GS.TS Tạ Ngọc Tấn cho biết, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta khẩn trương xây dựng một hệ thể chế quốc gia độc lập, dân chủ Nhân dân toàn diện trên các lĩnh vực "dẫn dắt" quá trình kiến tạo, xây dựng xã hội mới và bảo vệ thành quả cách mạng.
Ngay sau ngày giành chính quyền, một trong những việc đầu tiên mà chính quyền cách mạng làm là đặt trọng tâm vào việc hình thành bộ máy quản trị từ Trung ương đến cơ sở, coi đây là nền tảng thiết yếu của thể chế dân chủ mới. Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu được thành lập. Bộ máy hành pháp bước đầu bao gồm các bộ.
Cùng với đó, khẩn trương tổ chức chính quyền ở địa phương theo nguyên tắc dân chủ Nhân dân. Ủy ban kháng chiến được thành lập ở các cấp xã, huyện, tỉnh, thực hiện chức năng quản lý hành chính, tổ chức kháng chiến, duy trì trật tự an ninh và cải thiện đời sống Nhân dân.
Các tổ chức đoàn thể cách mạng như Mặt trận Việt Minh, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, Hội Phụ nữ cứu quốc, Đoàn Thanh niên cứu quốc… trở thành các lực lượng nòng cốt hỗ trợ xây dựng và bảo vệ chính quyền Nhân dân, tạo sự gắn kết rộng rãi giữa Đảng, chính quyền, quần chúng.
"Việc thiết lập hệ thống chính quyền từ Trung ương đến địa phương được tiến hành khẩn trương và có bài bản, tạo điều kiện để đất nước bước vào giai đoạn mới với tư cách một quốc gia độc lập, có chủ quyền, có thể chế rõ ràng", GS.TS Tạ Ngọc Tấn khẳng định.

Sắc lệnh số 63 ban hành ngày 22/11/1945 của Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quy định về việc tổ chức các Hội đồng Nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp. (Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia III)
GS.TS Tạ Ngọc Tấn nêu rõ, thời điểm đó, việc xây dựng hệ thống thiết chế quản trị từ Trung ương đến cơ sở được thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ, gắn bó với Nhân dân, chịu sự kiểm tra giám sát của Nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra" và "Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ".
Trên tinh thần đó, ngày 22/11/1945, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 63 quy định về tổ chức các Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Hành chính các cấp. Quy định chỉ rõ: "Ở mỗi làng, xã… sẽ có một Ủy ban hành chính do dân bầu ra bằng cách phổ thông đầu phiếu".
"Thiết lập thể chế ở cơ sở là sự thể chế hóa nguyên tắc dân chủ trực tiếp, trao quyền cho Nhân dân tự tổ chức và điều hành công việc làng xã. Điều này thể hiện sự tôn trọng vai trò của Nhân dân trong quản lý xã hội và là một cấu phần quan trọng trong hệ thể chế thống nhất từ trong mô hình quản trị hiệu quả, vừa linh hoạt trong thời chiến, vừa định hình nền hành chính dân chủ đầu tiên ở nước ta", ông Tấn nói.
Về phân công, phân cấp trong bộ máy, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Phải suy tính kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm liều. Chớ gặp sao làm vậy". Điều này, theo GS.TS Tạ Ngọc Tấn, thể hiện tư duy quản trị hiện đại, yêu cầu rõ ràng về chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm.
Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò then chốt của cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước, coi cán bộ, công chức là thành tố trung tâm trong thể chế công vụ, cần được đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện cả đạo đức và năng lực. Theo đó, Chính phủ đã ban hành quy định về tuyển chọn cán bộ, công chức hành chính theo năng lực, phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng.
Bên cạnh đó, Chính phủ trọng dụng trí thức, chuyên gia dưới chế độ cũ là những người am hiểu thể chế và vận hành xã hội.
"Những người như vua Bảo Đại, cụ Huỳnh Thúc Kháng và nhiều quan lại, trí thức của triều đình phong kiến như Bùi Bằng Đoàn (Thượng thư Bộ Hình triều Nguyễn), Phan Kế Toại (Khâm sai đại thần Bắc Bộ của Chính phủ Trần Trọng Kim), Phạm Khắc Hòe (Đổng lý Ngự tiền đức vua Bảo Đại), Tham tri Đặng Văn Hướng; Vi Văn Định (cựu Tổng đốc Thái Bình), Hồ Đắc Điềm (cựu Tổng đốc Hà Đông)… được mời làm cố vấn và tham gia vào bộ máy Nhà nước mới nhờ kiến thức, kinh nghiệm và sự tận tụy với đất nước của họ", ông Tấn nói.
Chính sách này, theo GS Tấn, thể thể hiện tư duy thể chế mở, hữu dụng và bao dung, không câu nệ lý lịch mà đặt lợi ích quốc gia lên trên hết. Đây cũng là cách tiếp cận nhân văn trong phát triển thể chế dựa trên tri thức mà Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng hết sức linh hoạt để xây dựng hệ thể chế quốc gia trong bối cảnh chuyển giao lịch sử lúc bấy giờ.
Hoàn thiện thể chế hiện đại để bứt phá
Trong bối cảnh chuyển mình lịch sử của dân tộc, Việt Nam không chỉ bảo vệ nền độc lập như sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 mà đã tiến xa hơn, đó là sự khẳng định cơ đồ, vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Đó là kỷ nguyên vươn mình phát triển mạnh mẽ, đúng như kỳ vọng lịch sử từng mở ra vào mùa Thu 1945.
Song hành với thời cơ thuận lợi, GS.TS Tạ Ngọc Tấn chỉ rõ những biến động phức tạp về an ninh, kinh tế, chính trị quốc tế; yêu cầu quản trị hiện đại; khoảng cách phát triển; nguy cơ tụt hậu nếu không kịp đổi mới thể chế… đang đặt ra những thách thức không nhỏ.
"Từ đó, đặt ra yêu cầu phải có một hệ thể chế đủ mạnh, linh hoạt, hiện đại để không chỉ giữ vững ổn định chính trị - xã hội, mà còn dẫn dắt quá trình phát triển nhanh và bền vững đất nước. Những bài học về xây dựng hệ thể chế sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cần được kế thừa, phát huy để hoàn thiện hệ thể chế ở nước ta theo hướng hiện đại hóa", ông Tấn nhấn mạnh.

Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đại biểu Quốc hội tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV. (Ảnh: quochoi.vn)
Theo GS.TS Tạ Ngọc Tấn, trọng tâm trước hết là hoàn thiện thể chế, Pháp luật, tháo gỡ "nút thắt", "điểm nghẽn", giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực, phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh của đất nước, tận dụng mọi cơ hội phát triển.
Phát huy bài học xây dựng hệ thể chế sau thắng lợi Cách mạng Tháng Tám trong kỷ nguyên mới đòi hỏi phải hành động nhanh, quyết đoán trong khởi tạo và sửa đổi thể chế, không để lỡ thời cơ.
Trọng tâm được ông Tấn đề cập là xây dựng hệ thống thể chế, pháp luật mang tính tổng thể, minh bạch, ổn định, khả thi, có khả năng thích ứng linh hoạt với biến động.
Đổi mới cách tiếp cận, thay vì kiểm soát, cấm đoán, cần "mở rộng không gian pháp lý", trao quyền nhiều hơn cho các chủ thể xã hội. Song song với đó là đẩy mạnh công khai, minh bạch trong quy trình xây dựng chính sách, pháp luật, có cơ chế phản biện xã hội, đánh giá tác động chính sách, tăng sự tham gia của người dân, doanh nghiệp…
Nhiệm vụ then chốt nữa, ông Tấn lưu ý là tiếp tục tổ chức thực hiện có hiệu quả việc sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và chính quyền địa phương 2 cấp.
Cụ thể, cần theo dõi, bám sát việc triển khai thực hiện thể chế, pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động của cơ quan, tổ chức được xây dựng theo mô hình tổ chức bộ máy mới, đánh giá kết quả hoạt động, từ đó có giải pháp điều chỉnh kịp thời, khắc phục hạn chế, bất cập để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan, tổ chức.
Cùng đó là thực hiện tốt chế độ, chính sách đối với cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động bị ảnh hưởng. Cơ chế, chính sách phải bảo đảm tính công bằng, hài hòa trong tổng tương quan chung giữa các đối tượng nhằm ổn định cuộc sống, quyền và lợi ích để không ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy.
"Việc xây dựng chính sách phải gắn với trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong đánh giá, sàng lọc, lựa chọn đối tượng nghỉ gắn với tinh giản biên chế và cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ, đồng thời không để chảy máu chất xám, bảo đảm duy trì và giữ chân cán bộ, công chức, viên chức tốt, có năng lực, phẩm chất ngang tầm nhiệm vụ.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm, kịp thời trường hợp lợi dụng việc sắp xếp tổ chức, gây mất đoàn kết nội bộ, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và cơ quan, tổ chức", ông Tấn nói.
Một yêu cầu khác, theo GS.TS Tạ Ngọc Tấn là đổi mới tư duy, chính sách thể chế về nguồn lực con người.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, một trong những bài học sâu sắc và sáng suốt nhất là tư duy "trọng dụng nhân tài, không phân biệt thành phần xuất thân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
"Rất nhiều trí thức, chuyên gia, thậm chí từng phục vụ dưới chế độ cũ, đã được trọng dụng và trở thành những nhân tố nòng cốt trong việc hoạch định chính sách, xây dựng nền hành chính cách mạng, góp phần đặt nền móng cho hệ thể chế quốc gia non trẻ. Tư duy ấy đến nay vẫn còn nguyên giá trị và cần được tiếp tục khai thác, đổi mới mạnh mẽ trong hệ thể chế hiện đại", ông Tấn nói.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, chuyển đổi số và cạnh tranh về trí tuệ ngày càng gay gắt, nguồn lực con người, đặc biệt là nhân tài, chuyên gia, trí thức chính là yếu tố quyết định năng lực thể chế và năng lực cạnh tranh quốc gia.
Để phát huy tối đa nguồn lực này, ông Tấn nhấn mạnh, cần xây dựng thể chế khuyến khích, trọng dụng và bảo vệ người tài, tạo điều kiện để đội ngũ trí thức trong và ngoài nước được tham gia thực chất vào các quá trình như: hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật, cải cách hành chính, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo.
Đồng thời, thể chế nhân sự quốc gia cần chuyển từ "quản lý con người" sang "tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện", lấy hiệu quả công việc và đóng góp thực chất làm thước đo, chứ không chỉ dựa vào lý lịch, cơ cấu hay hình thức hành chính. Đổi mới tư duy thể chế về nguồn lực con người chính là điều kiện tiên quyết để xây dựng một Nhà nước kiến tạo, một nền quản trị có chiều sâu trí tuệ và có khả năng vượt qua những thách thức mới của thời đại.
"Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ mang lại độc lập cho dân tộc, quyền làm chủ của Nhân dân mà còn đặt nền móng cho việc xây dựng hệ thể chế quốc gia độc lập, dân chủ Nhân dân với những bài học quý báu đối với cách mạng Việt Nam.
Việc tiếp tục hoàn thiện hệ thể chế quốc gia không chỉ là phát huy di sản lịch sử, mà còn là yêu cầu bắt buộc để nâng cao năng lực quản trị quốc gia, bảo đảm dân chủ, phát triển nhanh và bền vững. Một hệ thể chế hiện đại, dân chủ, thích ứng sẽ là điều kiện quyết định để Việt Nam vươn mình mạnh mẽ trong kỷ nguyên mới", GS.TS Tạ Ngọc Tấn nói.