Trong cuốn Khảo luận về Tết, bên cạnh việc lý giải nguồn gốc các phong tục ngày Tết (từ tập tục viết câu đối và chơi chữ, các tập tục kiêng kỵ đầu năm, tục xông đất, tiễn ông Táo về trời…), nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng còn cho biết nguồn gốc và ý nghĩa của các loại lễ vật (vật phẩm, cúng phẩm) dâng cúng tổ tiên ngày Tết.
Theo tác giả sách, về đại thể, lễ vật dâng lên tổ tiên trong dịp Tết bắt nguồn từ cơ cấu lễ vật của Đạo giáo lẫn Phật giáo. Theo đó, trong nghi lễ kính thần của Đạo giáo, ngũ phẩm cúng dường có 5 thứ: hương, hoa, đèn, nước và quả.
Còn trong nghi lễ nhà Phật cũng quy lễ vật vào cơ cấu thập chủng cúng dường, tức mười loại vật phẩm để cúng dường chư Phật, Bồ Tát, Thánh tăng, gồm: hoa, hương, anh lạc, mạt hương, đồ hương, thiêu hương (hương đốt), lọng lụa, tràng phan, y phục và kỹ nhạc; song phổ biến là “cúng vật”, bao gồm 6 loại (lục cúng): hoa, hương bôi/xức (đồ hương), nước, hương đốt (thiêu hương), thức ăn (phạn thực), đèn thắp (minh đăng).
![]() |
Sách Khảo luận về Tết. Ảnh: Q.M. |
Hoa cúng và hương đốt
Cũng theo nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng, trong từng tôn giáo, mỗi lễ vật/cúng phẩm hàm chứa ý nghĩa biểu tượng riêng theo giáo pháp của mình. Và lễ vật dùng trong việc tế tự tổ tiên trong ba ngày Tết cũng có ý nghĩa tượng trưng của từng loại.
Đầu tiên là hoa cúng, vật phẩm cúng biểu thị sự thanh cao và quý giá, dùng để dâng cúng chư thần, Phật, tổ tiên và mặt khác hoa cùng đảm nhận chức năng trang nghiêm nơi thờ tự lẫn đối tượng thờ tự.
Ở xứ ta, việc bày hoa để làm cúng phẩm, chiếu theo quy định truyền thống “Đông bình Tây quả”, tức hoa cúng được cắm vào bình, đặt ở bên phải bàn thờ (từ trong nhìn ra).
Ở đây, hoa là vật phẩm được tích hợp vào các cúng phẩm khác như để tăng cường sự trang nghiêm cho cúng phẩm. Bình hoa là một thứ cúng phẩm biểu thị sự thanh cao và quý giá; đồng thời đảm nhận chức năng trang nghiêm nơi thờ tự.
Còn về tiêu chí chọn hoa cúng, yêu cầu chung nhất là sắc, hương, tươi tốt bền lâu và kế đó là ý nghĩa biểu tượng của loài hoa, là tên gọi của hoa. Sắc hoa thường chọn là màu sắc cát tường: đỏ, vàng, hồng. Hương thơm của hoa cũng là tiêu chí quan trọng, các loài hoa có mùi hôi, mùi đắng cay, hoa của cây có gai, loài hoa có tên gọi xấu, mau phai tàn không được chọn.
Các loại hoa có sắc diễn tươi tốt, thậm chí cây lá, có sức sống/xinh tươi, bền lâu khi cắm trong lọ nước, cũng được dùng để cắm xen trong bình hoa cúng. Riêng các loài hoa hàm chứa ý nghĩa biểu trưng, liên quan đến sự cát tường, may mắn, lợi lộc (cúc, vạn thọ, đồng tiền...) và đặc biệt, các loài là loại hoa thiêng (sen, huệ ta, huệ tây...) dùng làm hoa cúng các đối tượng tín ngưỡng của mình trong từng nghi lễ cụ thể.
Tiếp theo là hương đốt - còn gọi là nhang - lễ vật đứng đầu trong lục cúng, sáu thức lễ vật dâng cúng.
Theo tác giả sách, trong bất cứ việc thực hành nghi lễ nào, hương là lễ vật không thể thiếu. Cây hương bao gồm ba thành tố cơ bản để trở thành vật phẩm nghi lễ: hương thơm, khói và lửa để đốt. Lửa chủ yếu có công năng tẩy uế và tái sinh; kế đó, lửa còn có công năng chuyển sự vật sang trạng thái vi tế bằng cách đốt cháy cái vỏ ngoài thô lậu; và thêm vào đó, lửa cũng được coi là phương tiện vận chuyển, là sứ giả của thế giới sống sang cõi thiêng, thể giới vĩnh hằng.
![]() |
Thờ cúng tổ tiên ngày Tết. Nguồn: iStock. |
Đèn, nước và quả
Tiếp theo là cúng phẩm đèn - còn gọi là đăng: bao gồm đèn dầu, đèn nến là những đồ tự khí không thể nhiều, dù ở quy mô tam sự, ngũ sự hay thất sự.
Theo tác giả, bộ tam sự gồm: đỉnh/lư hương và đôi hạc (để đèn thiếp dầu hay cắm nến) hoặc đỉnh/lư và cặp chân nến. Còn bộ ngũ sự gồm đỉnh, đôi hạc và cặp chân nến. Ngoài bộ tam sự hay ngũ sự còn bát hương, bình/lọ hoa, mâm bồng (bày trái/ quả), đài thờ (đựng rượu cúng)... và đèn thờ.
Còn đèn thờ, đặt chính giữa dưới khám thờ được gọi là đèn thái cực là ngọn đèn luôn luôn được thắp sáng biểu thị cho nguồn sáng vĩnh cửu. Còn đèn ở chân nến, được coi là biểu tượng của lưỡng nghi (âm/ dương) chỉ thắp khi cúng lễ và khi lễ tất thì tắt.
Tiếp theo là mâm ngũ quả, cứ theo tên gọi thì phải có 5 loại quả. Theo quan niệm phổ biến trong khu vực chịu ảnh hưởng văn hóa Hán, thường gộp các sự vật/sự việc, các quy luật phổ biến vào con số 5; theo đó, có các bộ ngũ: ngũ hương, ngũ sắc, ngũ vị, ngũ âm, ngũ tạng, ngũ quan, ngũ kim, ngũ cốc... Như vậy, số 5 là biểu hiện chung của sự sống; theo đó, ngũ quả tự nó biểu trưng một “tập thành hoàn hảo” của thứ lễ vật dâng cúng gọi là quả.
Về các loại quả được chọn chưng bày trái cây trên bàn thờ Tổ tiên ngày Tết, tác giả cho biết ở Nam bộ, tập tục xưa tồn tại chí ít cho đến trước 1945 có 2 cỗ khác nhau. Cỗ trái cây thứ nhất có phần tương tự mâm ngũ quả hay mâm quả tử được gọi là cái “chò chuối” tức một cái “chưn chò” ba chân làm bằng gỗ cao độ 30, 40 phân, trên đặt một “đĩa bàn thang”, để bày cỗ chuối.
Theo tác giả, chuối là lễ vật truyền thống biểu thị cho khả năng sinh sôi mạnh mẽ và mặt khác; một buồng chuối với nhiều nải, mỗi nải chuối gồm nhiều trái chuối dính liền vào nhau nên hình ảnh của của sự phồn sinh, phát đạt. Trong chừng mực nào đó, chuối có ý nghĩa biểu trưng tương đồng với trái Phật thủ.
Loại cỗ trái cây thứ hai là một cặp đôi đặt hai bên lư hương chính trên bàn thờ. Người ta dùng hai đài gỗ đế chưng trái: dưới là trái dưa hấu, trên đỉnh trái dưa hấu là quả hồng rim/hồng khô và trên quả hồng khô là trái quýt.
Theo tác giả, dưa hấu biểu thị cho sự sinh sôi (nhiều hạt) và cát tường (màu đỏ); trái hồng khô được coi là hình ảnh của đồng tiền và quýt đồng âm với kiết/cát, tức điều lành.
Về sau, ở Nam bộ, mâm trái cây trên bàn thờ Tổ tiên ngày Tết lại biểu thị nội dung cầu mong dựa vào sự “tá âm” từ tên gọi của các loại trái cây. Phổ biến là mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài biểu ý “Cầu vừa đủ xài”; thêm vào đó là trái sung hoặc trái thơm cốt để cầu mong cuộc sống “thơm tho, sung túc”…
Tiếp theo là nước - một nguyên tố trong ngũ hành, là một trong tứ đại (đất, nước, lửa, gió)... là cúng phẩm có mặt trong hầu hết nghi lễ. Dù có thể có những sai biệt song ý nghĩa tượng trưng của nước quy vào ba chủ đề chính: 1) Nước là dạng thức thực thể của thế giới, là vật chất khởi thủy. 2) Nước có tính thanh khiết và là phương tiện thanh tẩy. 3) Nước là nguồn sống và là yếu tố tái sinh, biểu tượng khả năng sinh sôi nảy nở.
Theo tác giả, nước cúng là vật phẩm tinh khiết dâng lên tổ tiên, thần Phật. Nói rộng ra, Tết đến, cùng với sự tái sinh của vạn vật, các tập tục liên quan đến nước ở thời điểm này cũng không ngoài ý nghĩa của sự tái sinh nhằm mong cầu sự thanh xuân cho cuộc sống và ở khía cạnh khác, với cái nhìn ở tầm kích khác, nước được coi như biểu tượng thanh tịnh của nỗ lực hướng thiện.